Visits: 1
Nằm bên bờ kênh Vĩnh Tế hiền hoà cùng với cánh đồng lúa bao la và xa xa là nước láng giềng Campuchia tạo cho không gian chùa rất yên bình và tĩnh lặng. Không chỉ là nơi tu hành mà nơi đây còn là một di tích lịch sử được công nhận.
Chùa Bồng Lai nằm cách Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam khoảng 5km. Theo các vị bô lão xưa kể lại rằng, Chùa Bồng Lai do ông Đạo Lập dựng nên. Người ta gọi ông là Đạo Lập vì chính ông đứng ra lập cái am nhỏ hiệu là “Bồng Lai Tự” vào năm 1861. Ban đầu chỉ là cái am nhỏ, ngoài việc tu hành ở đây thì ông còn trị bệnh cứu người, gặp năm dịch bệnh hoành hành, người dân kéo về am ngày một đông do đó nhiều người đã đề nghị và được ông chấp thuận nên đã cất lại ngôi chùa to lớn hơn và hoàn thành vào năm 1876, lấy hiệu là “Bồng Lai Cổ Tự”. Theo ông bà xưa kể lại, sau khi ông Đạo Lập viên tịch, có người phụ nữ tên Bài đến tu tại chùa do được yêu thương, quý mến nên sau khi bà qua đời thì dân làng hay gọi chùa này là chùa Bà Bài.
Ông Đạo Lập tên thật là Phạm Thái Chung sinh năm 1832, mất năm 1891 quê quán ở xã Đa Phước, Cồn Tiên đối diện tỉnh Châu Đốc ngày xưa, nay là xã Đa Phước tỉnh An Giang. Ông có biệt danh là La Hồng Chơn Nhơn. Nhưng dân chúng ở đây mỗi khi nói đến ông, họ chỉ gọi là Đức Tiên Sanh hay Đức Sư Cố. Theo tài liệu lưu hành nội bộ của chùa Bồng Lai “Sự tích Bồng Lai Tự và Ông Đạo Lập” của cư sĩ Nhật Huỳnh thì có lưu truyền một số mẫu chuyện mà ông Đạo Lập đã thể hiện thần thông để tạo niềm tin nhằm hoá độ dân chúng mà được các tín đồ truyền lại đến ngày nay như câu chuyện ông Đạo dựng cột phướn; ông Đạo tàng hình; ông Đạo ném dao; ông Đạo trổ khám…
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, chùa là nơi trú ngụ, giao liên của quân giải phóng. Năm 1966, chùa bị bắn sập nên hội trưởng của chùa là ông Huỳnh Chơn Tu đã thưa lên tỉnh Châu Đốc lúc bấy giờ và được bồi thường 5 kíp gỗ. Năm 1969, chùa được cất lại nhưng phải di dời cất tạm ở phía sau Lăng Thoại Ngọc Hầu. Đến năm 1989, bà con ở đây làm đơn xin xây dựng lại chùa ở địa điểm cũ và được chấp thuận nên chùa được xây dựng lại khang trang hơn như ngày nay. Còn ngôi chùa phía sau Lăng vẫn còn tồn tại như một bằng chứng cho quá trình lịch sử đầy thăng trầm của nơi đây. Trong chiến tranh biên giới Tây Nam, chùa được chọn làm địa điểm tập kết lực lượng dân quân xã Vĩnh Tế đánh bọn Pôn-pốt.
Ông Đạo Lập là một trong thập nhị đệ tử của Phật Thầy Tây An nên việc thờ phượng của chùa Bồng Lai cũng theo nghi thức của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương nghĩa là không thờ cốt tượng Phật, không tụng kinh, người tu không cần cạo tóc, không mặc áo cà sa…Trong chùa, nơi chánh điện chỉ thượng một tấm trần điều màu đỏ với ý nghĩa là tình đoàn kết, lòng yêu thương đồng bào nhân loại. Ngoài ra, do thực hiện lời truyền dạy của Phật Thầy Tây An, ông dựng nên ngôi chùa này vừa là nơi tu hành vừa là nơi gìn giữ cây thẻ số 3 “Tây Phương Xích Đế – Bửu Công Vương Phật”, là một trong năm cây thẻ mà Đức Phật Thầy giao cho đại đệ tử Trần Văn Thành cắm để trấn giữ bốn phương.
Sau này có vị ni sư đến xin ở tu hành, vì là người xuất gia nên ni sư có thỉnh một số tượng Phật về chùa thờ. Vì vậy, ngày nay trong việc thờ cúng hay việc tu hành ở chùa có sự kết hợp giữa giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật giáo tạo nên một nét văn hoá tín ngưỡng đặc sắc riêng cho chùa.
Từ những giá trị lịch sử và truyền thống cách mạng nên chùa được UBND tỉnh An Giang xếp hạng là di tích lịch sử cách mạng theo Quyết định số: 2134/ QĐ.UB ngày 27/10/2006.
Để đến chùa Bồng Lai, du khách có thể đi nhiều phương tiện như bằng tắc ráng hay tàu chạy dọc theo bờ kênh Vĩnh Tế hoặc đi bằng đường bộ theo tỉnh lộ 955A cách Cống Đồn khoảng 3km sẽ thấy chiếc cầu treo lớn bắc qua bờ kênh là đến chùa.
Để tưởng nhớ công lao của ông Đạo Lập và Phật Thầy Tây An nên hằng năm chùa tổ chức cúng kỵ cơm cho ông Đạo Lập vào ngày 29,30/9 âl và Phật Thầy Tây An vào ngày 11,12/8 âl. Vào những ngày này người dân và du khách đến tham dự rất đông nên Ban Hội Tự có tổ chức nấu đồ chay, nước uống để phục vụ cho mọi người.
(Nguồn tham khảo: Bảo tàng tỉnh An Giang và tài liệu lưu hành nội bộ của chùa Bồng Lai “Sự tích Bồng Lai Tự và Ông Đạo Lập” của cư sĩ Nhật Huỳnh)
Bài: Minh Trang
Ảnh: St








