ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BAN QUẢN LÝ KHU DU LỊCH QUỐC GIA NÚI SAM

PHẬT THẦY TÂY AN VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CHO XÃ HỘI

Visits: 11

Phật thầy Tây An (1807-1856) tên thật là Đoàn Minh Huyên, còn có tên là Đoàn Văn Huyên, quê quán ở làng Tòng Sơn, tổng Vĩnh Trinh, huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Sau này thuộc xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, nay là xã Mỹ An Hưng, tỉnh Đồng Tháp (tên gọi sau sáp nhập). Về gia thế của Phật thầy đến nay chưa có tài liệu nào ghi lại một cách rõ ràng, chỉ biết qua sấm truyền thì Ông đã đi chu du khắp cả Nam Kỳ Lục Tỉnh xưa.

Cốc ông Đạo Kiến ngày xưa, nay là Tây An Cổ Tự (Chợ Mới)

Phật thầy Tây An là cách gọi tôn kính của các tín đồ và người dân đối với Ông. Cuộc đời và đạo nghiệp của Ông gắn liền với công cuộc khai hoang, lập ấp và giáo hóa người dân. Ông được người đời tôn kính không chỉ những đóng góp về tôn giáo mà còn vì những giá trị nhân văn to lớn khác.

* Những đóng góp về mặt tôn giáo (Đạo)

Phật thầy Tây An đã sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương vào giữa thế kỷ 19 . Đây là tôn giáo nội sinh đầu tiên của vùng đất Nam Bộ mang đậm bản sắc văn hóa, tín ngưỡng, phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam.

“Bửu Sơn Kỳ Hương” có nghĩa là ngọn núi báu có mùi hương lạ. Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương dựa trên giáo lý nhà Phật làm gốc nhưng tôn chỉ và phương pháp hành đạo rất đơn giản. Tôn chỉ của đạo là “học Phật – tu nhân” và báo đáp “Tứ đại trọng ân”. Học Phật chủ yếu là học theo “Giới, Định, Tuệ” và noi theo gương đức Phật, theo tấm lòng từ bi của Phật. Còn Tu nhân là tu tâm dưỡng tánh, không làm những việc xấu, siêng làm những điều thiện, tự sửa tâm tính, làm lành lánh dữ. Người theo đạo cần phải thực hành theo “Tứ đại trọng ân”: ân tổ tiên-cha mẹ; ân đất nước; ân tam bảo; ân đồng bào- nhân loại.

Các tín đồ của Đạo chỉ cần thờ một tấm Trần Điều (tấm vải đỏ) trước chánh điện, thể hiện tấm lòng từ bi, bác ái, đoàn kết, yêu mến đồng bào, nhân loại. Đạo không chú trọng việc xây dựng chùa chiền, không xuống tóc, không ăn chay, không thờ cốt tượng Phật, không li gia cắt ái…chủ yếu là tu tại gia và thực hành đạo đức trong cuộc sống hàng ngày. Quan điểm này rất gần gũi với người dân lao động, giúp họ có thể tu tập mà không cần phải từ bỏ cuộc sống thường ngày. Ông đã khéo léo trong việc dung hòa các giáo lý nhà Phật cùng với các yếu tố tín ngưỡng dân gian là thờ cúng tổ tiên ông bà. Điều này giúp Đạo dễ dàng đi vào lòng người và phù hợp với bản sắc của dân tộc ta giúp người dân duy trì được niềm tin, củng cố được trật tự xã hội ở vùng đất mới khai phá.

Năm 1849, lúc bấy giờ Nam Kỳ gặp thiên tai, dịch bệnh xảy ra triền miên lại mất mùa, đói kém làm cho đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Đúng thời điểm ấy, Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời với phương pháp hành đạo đơn giản; giáo lý là những bài sấm, giảng dễ hiểu, gần gũi với người dân đã giúp ích rất nhiều về mặt tinh thần cho người dân nên người dân đã theo Đạo rất đông.

* Những đóng góp về mặt xã hội (Đời)

Năm 1849 – 1850, ở Nam Kỳ xảy ra đại dịch, nhân dân khắp nơi chết rất nhiều. Theo quan niệm dân gian, khi có dịch bệnh thì người dân thường mổ heo, giết gà để cúng tế cầu cho tiêu trừ bệnh tật. Lúc này, Ông Đoàn Minh Huyên từ Tòng Sơn (nay thuộc Đồng Tháp) vào Trà Bư đến Xẻo Môn (nay thuộc An Giang) rồi dựng trại ở cốc ông Đạo Kiến (An Giang) để trị bệnh cho nhân dân. Phương pháp trị bệnh của Ông rất đơn giản mà hiệu quả, chủ yếu dựa vào phương pháp dân gian kết hợp niềm tin, giáo lý tinh thần. Ông chỉ sử dụng cây cỏ quen thuộc trong dân gian, nước lã, tro nhang,…cùng với việc khuyên răn người dân ăn ở hiền lành, chăm làm việc thiện, cải thiện đạo đức thì với niềm tin này con người sẽ bớt sợ hãi trước dịch bệnh. Chính nhờ điều này mà nhân dân tôn kính Ông như một vị cứu nhân độ thế trong thời buổi dịch bệnh, khó khăn này.

Ngoài việc chữa bệnh, giảng dạy đạo lý, Ông còn là người có công lớn trong việc khai hoang, lập ấp ở vùng Thất Sơn thời bấy giờ. Ông đã tập hợp, vận động nhân dân cùng nhau khai khẩn đất hoang để cày cấy, trồng trọt, sản xuất để tự nuôi sống gia đình và có cuộc sống ổn định. Các nơi được khai hoang được gọi là trại ruộng ở: dưới chân núi Két; vùng Láng Linh; vùng Đồng Tháp Mười; khu vực Cái Dầu. Ngoài thành lập trại ruộng, ông còn cho xây dựng đình Thới Sơn và lập 2 làng Hưng Thới và Xuân Sơn (nay thuộc Tịnh Biên). Việc làm này vừa mang ý nghĩa là vừa ổn định đời sống người dân bằng sản xuất nông nghiệp vừa giúp cộng đồng người Việt định cư bền vững ở vùng đất mới.

Sau này khi Pháp xâm lược thì những trại ruộng này là căn cứ để chống giặc ngoại xâm. Nhiều tín đồ và các đệ tử tiêu biểu của Ông sau này trở thành lực lượng nòng cốt trong các phong trào kháng chiến chống Pháp, thể hiện tinh thần yêu nước gắn liền với đạo pháp.

Mộ Phật Thầy Tây An (Vĩnh Tế)

Tóm lại, những đóng góp của Phật thầy Tây An cho xã hội không giới hạn trong lĩnh vực tôn giáo, y tế mà còn trong việc khai hoang đất đai, xây dựng làng xã. Đặc biệt là tạo ra một cộng đồng dân cư có niềm tin, có đạo đức và có tinh thần đoàn kết vẫn còn giá trị đến ngày nay. Hằng năm vào ngày 11- 12/8 âm lịch, để tưởng nhớ công lao và tri ân những đóng góp của Ông cho xã hội, các tín đồ và nhân dân đã long trọng tổ chức lễ giỗ của Ông tại các điểm di tích có liên quan đến Ông như ở: Chùa Tây An (Vĩnh Tế), Chùa Thới Sơn (Tịnh Biên), Đình Tòng Sơn (Đồng Tháp)… Vào ngày này, có hàng chục ngàn người dân địa phương cùng du khách đến hành hương, chiêm bái và đã trở thành sự kiện văn hóa đặc sắc của địa phương./.

          (Nguồn tham khảo: Sách Danh nhân Châu Đốc)

Bài: Minh Trang

Ảnh: St

CÁC TIN LIÊN QUAN
Vệ Thủy Miếu

Visits: 8

Vệ Thủy là tên một ngôi miếu nằm ở phường Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang nay thuộc Phường Châu Đốc, tỉnh An Giang. Tên gọi Vệ Thủy được lấy từ tên của một đội thủy binh của tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn, từng tham gia chống Pháp trong những ngày đầu thực dân đến xâm lược đất An Giang. Miếu Vệ Thủy ngày nay là nơi người dân tôn thờ hai vị lãnh đạo của đội binh năm xưa, đó là Chánh đội trưởng Đỗ Đăng Tàu và Phó đội trưởng Lê Văn Sanh.

No posts found.