Visits: 4
TÔN ĐỨC THẮNG – NHỮNG PHẨM CHẤT CAO QUÝ CỦA NGƯỜI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Tôn Đức Thắng (ở quê hương quen gọi là Hai Thắng, còn nhân dân gọi một cách thân thương là Bác Tôn ) sinh ngày 20-8-1888 tại quê nội là Cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, tỉnh An Giang). Quê ngoại của Tôn Đức Thắng là rạch Cái Sơn, xã Mỹ Phước, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên.
Tôn Đức Thắng được sinh ra trong một gia đình nông dân tương đối khá giả. Thân phụ là ông Tôn Văn Đề và thân mẫu là bà Nguyễn Thị Dị đều là những người nông dân hiền lành, cần cù, chịu khó, chất phác như bao người nông dân Cù lao Ông Hổ khác.

Năm 1894, khi Tôn Đức Thắng 6 tuổi, cha mẹ gửi ông về quê ngoại ở rạch Cái Sơn để theo học chữ với một thầy giáo làng đáng kính là ông Nguyễn Thượng Khách (Năm Khách). Ông là một nhà Nho có tinh thần yêu nước, những lúc rảnh rỗi, ông thường kể cho người học trò Hai Thắng ham học, ham hiểu biết về những sự kiện đã xảy ra tại quê hương khi ông chưa ra đời hoặc những câu chuyện về những tấm gương yêu nước như: Trương Định, Nguyễn Trung Thực, Thủ Khoa Huân, Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Dương….
Dần dần đã nung nấu trong Ông một tấm lòng yêu nước thương dân, căm thù bọn đế quốc xâm lược, sớm bộc lộ lòng yêu thương những con người bất hạnh, cùng khổ, bênh vực người yếu, chống mọi sự bất công. Từ đó đã hình thành một nhân cách sáng ngời: Lòng yêu nước, thương dân; một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất; người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng; nhà lãnh đạo mẫu mực, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị, nhân ái, thủy chung, khoan dung, nhân hậu…
* Tôn Đức Thắng – Người sớm có lòng yêu nước, thương dân
Bác Tôn luôn đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Từ nhỏ, Bác đã được nghe, được thấy cảnh áp bức bóc lột của thực dân Pháp nên đã có ý chí chống giặc cứu nước. Lòng yêu nước của Bác không phải là lời nói suông mà được thể hiện bằng hành động cụ thể và xuyên suốt cuộc đời của mình.
Bác Tôn quyết định lên Sài Gòn sinh sống, việc chọn con đường đi riêng cho cuộc đời mình thể hiện khát vọng và ý chí tự lập lớn, đó là một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên một nhà cách mạng vĩ đại. Lên Sài Gòn, bắt đầu cuộc đời làm thợ, Bác Tôn Đức Thắng đã chứng kiến sự bóc lột của bọn chủ đối với anh em công nhân. Vì vậy Bác đã sớm có những hoạt động yêu nước, tham gia vận động anh em học sinh lính thủy bỏ học (năm 1909), anh chị em công nhân Sở Kiến trúc cầu đường và nhà ở Sài Gòn chống bọn chủ cai, ký, cúp phạt, đánh đập vô lý và đòi tăng lương (năm 1910). Năm 1912, Tôn Đức Thắng tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son và vận động học sinh trường Bá Nghệ Sài Gòn bãi khóa. Sự kiện lịch sử này in dấu ấn rất sâu đậm trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Tôn.
Sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập, Bác Tôn đã nhanh chóng nhập Công hội bí mật vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Từ đó, Bác Tôn hoạt động dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, cống hiến nhiều hơn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác Tôn tham gia ngay vào cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Dù ở nhiều cương vị nào thì lý tưởng phấn đấu cho sự nghiệp độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động được Bác Tôn theo đuổi, thực hiện trọn vẹn trong suốt cả cuộc đời.
* Tôn Đức Thắng – một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất
Hơn một năm bị giam tại Khám lớn Sài Gòn, Bác Tôn luôn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng, kiên cường chống lại sự khủng bố của địch, không cho chúng moi tin tức về tổ chức. Mặt khác, Bác còn động viên anh em vững vàng, tin tưởng vào tương lai tất thắng của cách mạng nước ta. 15 năm ở địa ngục trần gian Côn Đảo là quãng thời gian thử thách lớn nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác, nhưng đó cũng là quãng đời đầy vinh quang
khi Bác thực sự biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng. Là một người đã có kinh nghiệm trong tổ chức Công hội bí mật ở Sài Gòn, Tôn Đức Thắng đã bàn và cùng với những người cộng sản thành lập Hội những người tù đỏ làm hạt nhân lãnh đạo, tập hợp tù nhân, tạo sức mạnh đoàn kết chống lại chế độ lao tù.
Tôn Đức Thắng là một trong số những người sáng lập chi bộ đầu tiên
ở nhà tù Côn Đảo và giữ một địa vị lãnh đạo quan trọng mãi cho đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
* Tôn Đức Thắng – người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng
Trong suốt hơn 70 năm hoạt động, Bác luôn đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc và sự thống nhất dân tộc lên hàng đầu. Tinh thần đại đoàn kết của Bác thể hiện ở việc kết nối mọi tầng lớp, mọi dân tộc, mọi tôn giáo, cùng hướng đến mục tiêu chung: độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Khi còn là công nhân ở nhà máy Ba Son, Bác Tôn đã lãnh đạo cuộc bãi công 1925 để ủng hộ thủy thủ Pháp phản đối chiến tranh. Việc làm này cho thấy không chỉ đoàn kết trong nước mà Bác còn đoàn kết với người lao động quốc tế, với phong trào cách mạng thế giới.
Trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc Bác luôn kêu gọi liên minh công – nông – trí thức để tạo sức mạnh tổng hợp. Trong Mặt trận Việt Minh, Bác là tấm gương kết nối các đảng phái, tôn giáo, dân tộc vì mục tiêu giải phóng dân tộc.
Trong thời kỳ đất nước thống nhất, Bác Tôn chủ trương xóa bỏ mặc cảm, hàn gắn vết thương chiến tranh kêu gọi mọi người “xóa bỏ hận thù, cùng nhau xây dựng Tổ Quốc”
Bằng phẩm chất và năng lực của mình, Bác Tôn thực hiện xuất sắc chính sách đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
* Tôn Đức Thắng – nhà lãnh đạo mẫu mực, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị, nhân ái, thủy chung, khoan dung, nhân hậu…
Không chỉ là người công sản kiên trung mà Bác Tôn còn là nhà lãnh đạo mẫu mực: mẫu mực ở lý tưởng cách mạng, tinh thần hy sinh vì nước vì dân; mẫu mực ở phong cách người lãnh đạo; mẫu mực ở phẩm chất đạo đức lối sống.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, từ Côn Đảo trở về đất liền, Bác Tôn được Đảng và Nhà nước ta tin tưởng giao nhiều trọng trách: từ phụ trách Ủy ban Kháng chiến kiêm Chỉ huy trưởng lực lượng vũ trang Nam bộ… đến Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đến Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới, Chủ tịch Hội Hữu Nghị Việt – Xô. Dù ở cương vị công tác nào, Bác Tôn cũng luôn nêu cao ý thức, tổ chức kỷ luật của người đảng viên Đảng Cộng sản; gương mẫu đi đầu, sẵn sàng, gánh vác nhiệm vụ khó khăn nhất; có ý thức trách nhiệm cao với công việc; không màng danh lợi cho bản thân, sống bình dị; nêu gương sáng về sự trung thành, lòng tận tụy phục vụ nhân dân.
Bác Tôn cũng sống cuộc đời khiêm tốn, bình dị. Sự khiêm tốn, giản dị của Người đã hàm chứa được cái đẹp, cái trọn vẹn trong đạo đức đời thường. Người là một tấm gương tiết kiệm mẫu mực: tiết kiệm trong sinh hoạt gia đình, trong công tác; tiết kiệm tài sản của nhân dân, đất nước, đồng thời cũng tiết kiệm cho bạn bè quốc tế. Bác sống liêm khiết, trong sạch, ngay thẳng, chân thành, không tham quyền, cố vị, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết.
Là một chủ tịch nước nhưng Người ăn những món ăn giản dị như các món ăn của quê nhà; mặc như những người bình thường. Có lần, một cán bộ chuẩn bị vượt Trường Sơn về Nam công tác, trước khi rời Hà Nội, chị đến thăm sức khỏe và chào Người, thấy Người mặc chiếc áo ấm cũ rút ngắn có nối thêm một khúc vải, chị cảm động hỏi: “Bác ơi, làm Chủ tịch nước sao Bác mặc áo nối thế này?”. Người vui vẻ trả lời: “Chủ tịch nước mặc áo nối thì dân mới có đủ cơm ăn”. Và thật xúc động biết bao khi vị Chủ tịch nước – vừa lãnh đạo Nhân dân đánh thắng kẻ thù mạnh nhất thế giới về thăm quê lại mặc một chiếc quần có mảnh vá.
Đối với gia đình, vợ con, Bác Tôn là người chồng, người cha có trách nhiệm, rất mực yêu thương và thủy chung. Việc tặng chiếc cối xay tiêu cho Bác gái đỡ nhọc nhằn khi nấu ăn đã thể hiện sự quan tâm và nghĩa tình sâu nặng của Bác Tôn đối với vợ.
Với những đức tính, phẩm chất cao quý của Bác Tôn, thế hệ trẻ của chúng ta ngày nay cần phải học tập và noi theo, học ở Bác không phải những đều lớn lao mà từ những việc, những hành động nhỏ nhặt, giản dị trong cuộc sống. Học và phải thực hiện những việc làm đó một cách cụ thể như: thể hiện lòng yêu nước bằng những việc làm thiết thực, phải nổ lực học tập, rèn luyện các kỹ năng, kiến thức để góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển. Cần phải rèn luyện thái độ tích cực, nghiêm túc, sáng tạo trong công việc, không ngại khó, ngại khổ. Ngoài ra, phải học cách sống chân thành, hòa đồng, khiêm tốn, bình dị, tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện, chung tay xây dựng một cộng đồng đoàn kết và nhân ái./.
(Nguồn: Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh An Giang)
Bài: Minh Trang
Ảnh: St